Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

Giới trẻ Việt Nam Hôm Nay


TRONG ÐÁM BỤI MỜ!
Thân mến gửi tất cả những bạn trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới.

Có những câu hỏi tưởng là khó mà hoá ra thật dễ, tưởng dễ mà hoá ra thật khó . Trong một buổi nói chuyện thân tình với một người bạn trên đất Mỹ, Người bạn thân kính đã đặt cho Tôi một câu hỏi, một câu hỏi tưởng dễ trả lời mà hoá ra thật khó. "Làm thế nào để một người trẻ tuổi Việt Nam ở hải ngoại tự hào về mình là người Việt Nam?".

Thật ra để trả lời câu hỏi này rất đơn giản và dễ dàng, nếu thật sự nó chỉ đưọc đặt ra với giới trẻ hải ngoại. Nhưng nếu câu hỏi tự hào dân tộc này chỉ đặt ra cho giới trẻ hải ngoại , thì rõ ràng chúng ta đã bất công với họ. Câu hỏi vô tình ngụ ý rằng chỉ có giới trẻ Hải Ngoại mới phải trả lời vấn nạn này. Mà thật sự, câu hỏi này đã được đặt ra cho tất cả người Việt Nam từ ngay sau khi có sự hiện diện của người phương Tây trên đất nước, nhất là trong suốt thời kỳ bị nô lệ trải dài gần 100 năm.

Khi người Việt Nam choáng ngợp trước những kỳ lạ và đồ sộ của nền văn minh cơ khí Âu Tây, người ta đã vội vã quay lại "ngao ngán, mặc cảm" với những gì cha ông mình theo đuổi và trân trọng mấy ngàn năm, những gì mình thừa kế . Cả mấy thế hệ liên tục đi truy lùng và nhồi nhét, chạy theo tung hô kho tàng tư tưởng Âu Tây để thoát ra khỏi mặc cảm thấp kém nô lệ.. Cứ đọc "Ðoạn Tuyệt" và những tác phẩm trong thời kỳ này mà cay đắng. Tất cả rủ rê nhau đoạn tuyệt với chính mình! Ý Thức Hệ Cộng Sản là một trong những hệ quả của sự đoạn tuyệt với Dân Tộc..và là hệ quả tồi tệ nhất! Vì Chủ Nghĩa Cộng Sản đã bắt nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với Dân Tộc Việt Nam một cách dứt khoát và tàn nhẫn nhất.

Chỉ còn một số rất ít những người còn cố gắng xiển dương giá trị Dân Tộc trong đơn lẻ như Trần Trọng Kim, nhưng lại chỉ bằng cách bênh vực Nho Giáo, một hệ tư tưởng hành xử du nhập từ Trung Hoa từ những năm bị người Trung Quốc đô hộ với những chính sách đồng hoá, mà không thấy xiển dương gì cho đặc tính Việt Thường, tổ tiên, con người Việt Nam!

Cho đến khi đất nước chia đôi, cả hai miền vẫn ngụp lặn trong việc truy tìm những giá trị ở đâu đâu để tồn tại.. Miền Nam với sự ảnh hưởng nặng nề của Mỹ, người ta vội vã nghiên cứu và bắt chuớc Mỹ, nhưng may mắn, vẫn có những lực tự phát hồi hướng dân tộc mạnh mẽ ngay từ trong nếp sống gia đình..Nhưng thật đơn lẻ không đủ để kéo cả một thế hệ thức tỉnh.

Ngoài Bắc, ngoài sự rập khuôn nô lệ hệ thống Cộng Sản mà bản chất của chủ nghĩa vốn đã phi dân tộc một cách có hệ thống. Ngưòi dân phải sống dưới sự cai trị khống chế chặt chẽ của hệ thống công an trị, và bị nhồi sọ liên tục bởi hệ thống đảng trị, thì người dân từ đứa trẻ thơ cho đến người già không còn một khí lực hay phương tiện để gìn giữ những giá trị tối thiểu của Dân Tộc ngay trong gia đình, dẫu là một nét văn hiến nhỏ nhất, chứ nói gì đến phát huy xiển dương tinh thần Dân Tộc.

Hậu quả là cho đến hôm nay, khi bị chế độ Việt Cộng buộc phải "mở cửa" để sinh tồn, giữ vững quyền lực độc tài.. . thì người dân trong nước, đặc biệt là gìới trẻ, vẫn dậm chân trong mặc cảm tự ti dân tộc bằng những khẩu hiệu tự hào suông theo một kiểu trẻ con như từ cái thời Hồ Chí Minh giả tên Trần Dân Tiên viết sách ca ngợi chính mình, ca ngợi Ðảng, Chủ Nghĩa Vô Sản v.v Nhưng thực tế, là tất cả từ trên xuống dưới, từ đứa Tổng Bí Thư Ðảng, thằng Chủ Tịch Nước cho đến ngưòi dân cùng khổ, lại chạy theo đời sống mới, Âu Mỹ hoá bằng một tốc độ chưa từng có -nếu không muốn nói là nhanh hơn cả những người Việt hải ngoại, những người đang sống ngay trong môi trường Âu Mỹ, trên một số khía cạnh..

Vậy chúng ta tự hào về Việt Nam như thế nào bây giờ?! ... Khi mà ý niệm vật chất đã bao phủ cả não trạng mấy thế hệ trong thiếu thốn nghèo đói lạc hậu, cộng thêm sự khiếp sợ và choáng ngợp trước nền văn minh Âu Mỹ, thì cái mặc cảm tự ti, thái độ vứt bỏ, chối bỏ bản sắc tất nhiên phải xảy ra. Và bây giờ với tốc độ toàn cầu hoá, thì sự khác biệt trong não trạng của người Việt bên trong nước và người Việt hải ngoại trong cái nhìn về chính bản thân mình có khác nhau là mấy?

Những ngày trở lại Việt Nam, có một lần các cháu Sinh Viên trong nước đã hỏi Tôi :

" Chú ạ, chúng ta vẫn hay nhắc nhở gìn giữ bản sắc dân tộc, vậy bản sắc dân tộc ở đâu? Là cái gì? Chúng cháu nhìn khắp chốn không thấy được một cái gì cụ thể để thấy Dân Tộc mình hơn người cả?"

Tôi hiểu là các cháu muốn nói đến những thành quả , công trình văn minh kỹ thuật tinh xảo, đồ sộ, những hệ tư tưởng mà chúng nó thấy và đọc được ở người Âu Mỹ, những cái chúng nó đang phải vội vã học hỏi bắt chước cho kịp trào lưu v.v Và tuổi trẻ chỉ thấy rặt phải học hỏi bắt chước Âu Tây từ cái nhỏ đến cái lớn!!!

Tôi cứ lặng người đi trước câu hỏi của những người trẻ tuổi đang sống ngay ở trên quê hương đất nước của chính mình! Bởi vì cùng một câu hỏi như vậy, những người trẻ tuổi Việt Nam được sinh ra hoặc lớn lên ở môi trường hải ngoại, khi đã có dịp quay trở về quê hương, hầu hết đều tự hỏi mình như thế! Bởi vì với những người trẻ tuổi này, Quê Hương, khởi sự chỉ là những ý niệm mơ hồ qua lời kể của cha mẹ, qua bài văn trên sách vở, phê bình của báo chí v.v Và khi đặt chân lên trên mảnh đất quê hương khốn khó ấy, sau hơn nửa thế kỷ nằm dưói chế độ Cộng Sản và chiến tranh, bây giờ toàn những rác rưởi của thời đại, những lạc hậu trì trệ, nghèo đói tồn đọng, từ nếp sống nghèo nàn cho đến cung cách cư xử tráo trở, trắng trợn, sống sượng giữa con người với nhau ...Có cái gì để tự hào!?!

Hậu quả là hầu hết các bài ký viết sau khi trở lại từ Việt Nam, toàn là những chê bai nghèo đói lạc hậu, bụi đường, thời tiết nóng bức, những lừa đảo, hối lộ, tệ nạn, tính gian vặt nhỏ nhen v.v Với họ, Ðây là tất cả là Việt Nam!!!

Tôi không biết những người lớn khác khi được hỏi những câu hỏi tương tự như vậy sẽ trả lời ra sao? Họ phải dẫn chứng những gì? Nhưng với tôi, cách trả lời đầu tiên vẫn là sự chân tình, thẳng thắn. Tôi đã trả lời với các cháu Sinh Viên ở Việt Nam, và ngay cả với những đưá cháu của Tôi và bè bạn của chúng ở ngoài này, bằng cách đặt ngược cho họ một câu hỏi.

-Tại sao mình lại đặt câu hỏi như vậy?

Có phải bởi vì chính mình mặc cảm tự ti với những người Âu Tây, và mặc cảm tự cao, khinh thị với những người Việt Nam nghèo khó của mình?

Hay tự mình đã có mặc cảm tự ti để rồi phải đi tìm một lý cớ để đổ thừa hoặc hãnh diện suông?

Nếu một người mà đã mặc cảm tự ti thấp kém, tự coi thường mình....Thì hành động níu kéo một cái gì ở bên ngoài chính mình, dẫu là gia thế hay lịch sử của Dân Tộc cũng chỉ là một hành động vô vọng, tự hào suông, mà thực chất chỉ là khoả lấp mặc cảm che đậy sự tha hoá vong bản, vong thân mà thôi..

Vì lịch sử có oai hùng, bất khuất, sáng lạn đến thế nào vẫn ư là lịch sử, là quá khứ.. Nó không là cái hiện tại hôm nay của bản thân mình.. Hôm nay nghèo đói lạc hậu, hôm nay tồi tệ mặc cảm, hôm nay bất tài, nô lệ v.v Thì dẫu lịch sử có oai hùng đến đâu chăng nữa, không những vẫn không thể che lấp được hiện tại thấp kém của mình, mà còn bị sự lạc hậu, mất nhân phẩm, nô lệ của bản thân mình hôm nay nó làm cho lịch sử oai hùng kia trở thành một trò cười ...Cái kết quả của hãnh diện suông từ sự níu kéo bám víu bên ngoài bản thân mình nó là như vậy.

Cho nên, Tôi phải nhìn từ chính bản thân Tôi trước! Tôi chưa cần biết tôi là Việt hay Miên hay Lào hay Mỹ v.v Tôi hãnh diện vì Tôi là Tôi.. Tôi là một cá nhân có nhân cách tự trọng. Tôi có năng lực và trí tuệ giải quyết vấn nạn hiện tại của Tôi. Tôi có can đảm và nghị lực đối đầu với vấn nạn trước mặt mà không bỏ chạy hoặc né tránh vấn đề. Như thế Tôi không cần phải truy tìm níu kéo cái gì để tự hào về chính Tôi nữa.

Như thế Tôi không cần vay mượn cái quốc tịch Mỹ, Úc, Pháp, Úc v.v để tự hào! Tôi không cần phải dựa vào cái thẻ đoàn viên hay đảng viên, hay Bác Hồ Bác Héo, hay cái chủ nghĩa nào , chế độ nào để tự hào...để xác định sự hiện hữu của Tôi..

Và khi Tôi đã tự hào về chính bản thân Tôi rồi. Tôi sẽ tự hào hơn nữa , nếu như Tôi nhìn lại bố mẹ Tôi, hai người thân kính ấy, dẫu có hay dở thế nào, cũng là người sinh thành ra Tôi, cái hình hài này của Tôi, là một phần của hai đấng cha mẹ, cái thân khôn lớn, trí tuệ này là tích tụ, là kết đọng của những ngày nặng nhọc công khó nuôi nấng, dạy dỗ ưu lo! Tôi sẽ thấy thêm đưọc niềm tự hào và trong đó có ý thức trách nhiệm gìn giữ bảo vệ niềm tự hào này cho Tôi và cho cả Cha Mẹ Tôi...

Và như thế, khi Tôi biết thêm rằng Cha Mẹ Tôi là người Việt Nam, và Tôi mang giòng máu Việt Nam, thì Việt Nam là cả một niềm hãnh diện vì Tôi là một người Việt Nam.

Tôi không muốn người ta biết đến Tôi vì Cha Mẹ, Dân Tộc tôi, nhưng Tôi muốn thế giới biết đến Cha Mẹ, Dân Tộc Việt Nam của Tôi, vì có Tôi là một người Việt Nam.

Như vậy làm sao Tôi còn có mặc cảm gì nữa! Và câu hỏi sẽ chẳng còn phải đặt ra nữa. Như thế Tôi mặc áo bà ba, hay bộ Âu phục, Tôi ăn cơm cầm đũa, hay ăn thịt bằng bộ dao nĩa v.v Tất cả là vì thuận tiện, là ý thích, mà không phải vì bộ áo này hơn bộ áo kia, là món này giá trị hơn món kia.. Tôi mặc, hay ăn uống tất cả những thứ ấy tự nhiên theo nhu cầu tiện lợi, mà không vì một mặc cảm hơn kém vì những thứ bình thường ấy... Tôi tự do và tự tại, tự tin và tự trọng.

Ðây không phải là một cách nói suông lý luận. Mà thực tế nó là như vậy!! Trong quá khứ người ta biết đến dân tộc Việt Nam, vì đã có những cá nhân đầy nhân cách tự trọng, tự tin và tự hào về chính mình, can đảm và trí tuệ như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi , Nguyễn Trãi , Quang Trung v.v Chứ không phải thế giới biết đến họ chỉ vì hai chữ Việt Nam suông...Ðây là những con người Việt Nam biết tự hào về chính mình, có năng lực và đã giải quyết vấn đề trưóc mắt của mình, thời đại mình.. Những cá nhân này đã làm cho thế giới chung quanh của thời đại họ biết về họ trước và qua họ, thế giới biết về dân tộc Việt Nam của họ.

Khi nhìn vấn đề tự trong bản thân của chính mỗi chúng ta như vậy..Thì tất cả những đám bụi mờ, những đống rác thối, những lạc hậu, những ti tiện đang tràn ngập trên đất nước Việt Nam, do Ðảng Cộng Sản Việt Nam tạo ra, đang ăn mòn niềm tự trọng của người Việt, không còn là một mặc cảm của chúng ta nữa, mà sẽ là động lực đắng cay, thúc đẩy tinh thần tự trọng và nhân cách Việt Nam trong mỗi cá nhân chúng ta, để thay vì cứ ngồi chê bai than trách , chúng ta sẽ dùng trí tuệ và năng lực của chúng ta để giải quyết vấn nạn thời đại của chúng ta : Quét sạch những đống rác và những kẻ đã đổ rác rưỏi ung thối đất nưóc quê hương! Chúng Ta sẽ tiếp nối truyền thống Việt Nam , là cho thế giới thấy một dân tộc Việt Nam tự tin, thật sự hiện hữu vì chính những cá nhân Chúng Ta tạo ra sự hào hùng này, trong thời đại hôm nay, như những người Việt Nam đi trước đã làm một cách trọn vẹn trong thời đại của họ.

Các bạn trẻ Việt Nam thân mến của tôi! Các bạn có thấy không? Dưới những đống rác ở Việt Nam, trong đám bụi mờ trên quê hương, là những mặt trời rạng rỡ... Những mặt trời rạng rỡ ấy chính là các bạn, là tôi , là tất cả những cá nhân người Việt Nam đang miệt mài, tận tâm thúc đẩy bánh xe lịch sử trong tiến trình giải thể  chế độ độc đảng  Cộng Sản Việt Nam để Dân Chủ Hoá đất nước và dân tộc! Chúng Ta, chính sự tự tin, tự trọng của chúng ta sẽ là niềm tự hào của Dân Tộc trong thời đại hôm nay, vì Dân Tộc Việt Nam là chính Chúng Ta! Chúng ta là Dân Tộc Việt Nam. Chúng Ta tự hào và hãnh diện vì nhân cách, bản lãnh, năng lực, và trí tuệ từ chính bản thân mình. Và vì Chúng ta là người Việt Nam, như thế Chúng Ta hãnh diện và tự hào về người Việt Nam và Ðất Nước Việt Nam . Chúng Ta và Dân Tộc Việt Nam là một.

Nguyên Khả Phạm Thanh Chương
 (Nguồn: http://duyviet.org/ )



Nơi Nào Tất Cả Đều Là Con Người?

 
Mới hôm qua, có một bạn trẻ trong nước hỏi Tôi: “Nhìn cung cách “xử án” và cung cách đối xử với gia đình anh Lê Chí Quang của nhà nưóc CHXHCNVN, đất nưóc mình hôm nay không có chỗ cho một Con Người. Có nơi nào cho mọi ngưòi đều đưọc sống với nhân cách và nhân phẩm thật sự cho mình không?”
Trước khi trả lời thẳng vào câu hỏi, Tôi xin được phép nhắc nhở bạn trẻ một điều “nho nhỏ” rằng ở đất nước mình đã lâu lắm rồi, đã không có chỗ cho một Con Ngưòi Việt Nam thật sự, chứ không phải đợi đến khi Lê Chí Quang bị xữ mới thấy!
Nó xảy ra từ thời thực dân da trắng độ hộ dân mình- rồi còn tệ hại hơn khi tên phỉ Hồ Chí Minh về nắm quyền! Thế cho nên xã hội mới đầy dẫy những xưng tụng thần thoại lố bịch với một ông lãnh tụ mắt có bốn đồng tử, thần thông quảng đại, nhưng lại tôn thờ , đội những tên mũi lõ râu xồm như Mác Lê lên đầu, lên đỉnh thượng cao hơn cả tổ tiên Âu Cơ, Vua Hùng ! Thế mới xảy ra cái gọi là “Cải Cách Ruộng Ðất” mà trong đó luân lý, đạo lý nhân chủ Việt Nam bị chà đạp, vứt bỏ , con mắng cha , vợ tố chồng, bạn bè dựng chuyện điêu ngoa phản nhau v.v dưới sự chỉ đạo của nhà cầm quyền, của “lãnh tụ anh minh”! để rồi sau đó lại có Nhân Văn Giai Phẩm, hàng loạt nhân tài văn gia của đất nưóc bị bức tử nữa chứ! Và cứ như thế, cái đảng CSVN, nó triền miên ăn mòn nhân tình, nhân tính, hủy hoại văn hoá của dân tộc mình cho đến ngày hôm nay!  Và khi đất nước chia đôi một nửa đất trong Nam cũng thế . Một gia đình nhà Ngô thao túng quyền lực đè nén người dân, rồi bọn quân đội thay nhau nhiễu loạn. Chiến tranh tương tàn cho đến khi thống nhất, thì tình trạng đàn áp chính trị tư tường cũng không thay đổi, mà còn có xu hướng đẩy người dân vào lối sống bái vật thấp hèn.  
Bạn trẻ phải nắm vững điều này để nhìn cho rõ là có một điều tồi tệ không bình thưòng trong sự hiểu biết và lối suy nghĩ của người Việt Nam mình ngày hôm nay!
Bây giờ, trở lại câu hỏi- để trả lời một cách triệt để nhất, và chân thật nhất, cho bạn trẻ đó, câu trả lời của Tôi  KHÔNG! không có nơi nào trên quả đất này mà mọi ngưòi đưọc sống với nhân cách và nhân phẩm thật sự cho chính mình hết”, ít nhất là theo cái nhìn từ kinh nghiệm bản thân 20 năm trong xã hội dân chủ pháp trị nhất hoàn cầu! , dĩ nhiên, với lối suy nghĩ của riêng Tôi.
Không có hệ thống cơ chế chính trị xã hội nào có thể tạo được môi trường tuyệt hảo mà trong đó mọi cá nhân đều được bảo vệ và tôn trọng một cách bình đẳng cả!
Chính bản thân mỗi cá nhân sẽ phải tự tạo nền tảng tự do dân chủ pháp trị trước, rồi cơ chế mới hoạt động như là một khung nền chung, để dựa vào đó mà cân bằng phát huy tính tự do dân chủ pháp trị! Thứ nhất bản chất của quyền là nhũng lạm! (power is absolutely corruptive, and corrupts absolutely).
Bất cứ chính quyền nào, ở thể chế nào cũng đều tìm đủ mọi phương cách, lý cớ để tăng quyền cho nhà nưóc và giảm dân quyền của ngưòi công dân bất chấp nguyên tắc tinh túy của nền tự do dân chủ và nhân quyền! Cứ nhìn nước Mỹ với “bộ Nội An” (Home Security) và vói những lý luận phi nhân quyền, phi pháp trị, để chính đáng hóa hành động bắt ngưòi giam giữ không thời hạn, không cần truy tố, thì rõ nhất. (Theo American Law Association, và International Amnesty thì có ít nhất là 6,000 ngưòi hiện bị giam giữ trái phép vô thời hạn trên đất thuộc chủ quyền nước Mỹ).
Nước Mỹ đưọc ca ngợi và tự nhận là xã hội dân chủ pháp trị đầu tiên, quy củ và vững chắc nhất, mà chỉ vì một hai biến động đã vội quăng bỏ nguyên tắc và tinh thần giá trị nhân quyền, thì chúng ta cần suy nghĩ, cân nhắc cẩn trọng hơn về bản chất của cơ chế và dân trí. (Xin tham khảo:
Cơ chế tam quyền phân lập, và bản hiến pháp với nền pháp trị dù có chặt chẽ cách mấy đi nữa cũng vẫn chỉ là cái khung tổng quát, mà trong đó vẫn cứ là mạnh được yếu thua! Mạnh ở đây phải hiểu rộng là mạnh tiền, mạnh thế, và mạnh cả miệng nữa! Nếu mỗi cá nhân không đủ hiểu biết và can đảm tự bảo vệ mình! Thì như chúng ta đã và đang thấy có bao nhiêu ngưòi cứ phải lầm lũi sống chịu đựng bất công, thấy điều phi chính không dám lên tiếng!
Tôi biết rằng bạn trẻ sẽ nhẩy nhổm và hỏi ngay rằng: “Chú ơi! vậy chúng ta đã và đang tranh đấu với cường quyền CSVN để rồi thiết lập thể chế nào đây? Khi mà chẳng có thể chế nào hoàn toàn hết cả?”
Này bạn trẻ ơi! Như Tôi vừa thưa với bạn rằng Cơ Chế chỉ có giá trị tương đối như một cái khung cuả dân chủ tự do pháp trị, mỗi cá nhân phải tự mình xây dựng đóng góp thêm vào cái khung sưòn này mới nên chuyện. Tiến trình xây dựng tranh thủ này liên tục không bao giờ ngừng nghỉ bạn trẻ ạ.
Vì thế bạn cứ thấy bất cứ ở trong xã hội dân chủ tự do pháp trị nào họ cũng đều có những cơ quan hội đoàn tư nhân độc lập của nhũng công dân ý thức hiểu biết cao, thưòng xuyên vận động “dân trí” về nguyên tắc pháp luật, quyền hạncông dân giới hạn của chính quyền v.v , và sẵn sàng xả thân tranh đấu với nhà cầm quyền để bênh vực và bảo vệ nguyên tắc dân chủ tự do pháp trị!
Ðấy bạn trẻ ạ ! Cái cơ chế tự do, dân chủ, pháp trị tự nó không hoàn chỉnh và đưa lại công lý! Nó cần có nền Dân Trí được cộng hưỏng từ trình độ dân trí của mỗi cá nhân ngưòi công dân để thưòng xuyên xây dựng và bảo vệ nguyên tắc tự do dân chủ pháp trị của họ.
Ðúng đấy bạn trẻ! Tôi muốn nhấn mạnh đến “dân trí”, trong đó yêu tố lương tri đứng hàng đầu! Sau mới đến sự hiểu biết. Vì lương tri, chính lương tri nhân bản mới cho bạn cái can đảm để tranh đấu cho lẽ phải của bạn, của mọi ngưòi! Vì bạn có thấy không, ở nưóc Việt Nam yêu dấu của mình, hay ở Trung Cộng, hay ở bất kỳ xã hội phi dân chủ, phi pháp trị nào cũng có những ngưòi tụ do, tự tại, sẵn sàng bất chấp hiểm nguy lên tiếng bênh vực lẽ phải cho chính họ và cho mọi ngưòi, như Nguyễn Văn Lý, Bao Tong, Bao Zunxin, Gao Xingjian,Yuan Hongbing, Neo sần mân đeo la của Nam phi (Nelson Mandela) v.v
Bạn trẻ chớ lầm lẫn với cái gọi là Lương tri tôn giáo ! Vì “lương tri tôn giáo” chỉ là một lối nói đi từ lòng ích kỷ dựa vào niềm tin cực đoan, nó sẽ chỉ đưa con ngưòi vào hố thẳm của man rợ như bạn đã thấy trong các cuộc xung đột tôn giáo, và nó cũng đang xảy ra trên thế giới nhu bạn thấy!
Và càng chớ có lầm lẫn với cái gọi là Lương tri chính trị , cái “lương tri” bị uốn nắn theo một quan điểm chính trị, chủ thuyết, khô cứng đầy định kiến và tàn bạo nó đã khiến con ngưòi, đồng bào của nhau cầm đao cắt cổ nhau hằng mấy mươi năm, và như bạn đang thấy nó đang tiếp diễn ở trên quê hương mình! Một loại lương tri độc quyền chân lý!!!
Cái lương tri mà Tôi mời bạn đến thăm, rồi ngắm nhìn ngay trong tâm hồn của chính mình, và cầm bắt lấy nó, chính là Lương tri nhân bản…Lương tri thuần khiết của Con Ngưòi! Nó là cái “bản thiện” mà có lẽ bạn trẻ đã dưọc nghe bậc cha mẹ, ông bà mình nói đâu đó “nhân chi sơ tính bản thiện”.
Cái lương tri mà anh chị em trong nước như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Phạm Quế Dương v.v và một số những cá nhân khác chúng ta chưa biết rõ tên tuổi,   sinh ra và lớn lên trong một xã hội không có cơ chế dân chủ tự do pháp trị, nhưng họ vẫn hành xử đầy tự do dân chủ pháp trị. Chính cái lưong tri nhân bản đã soi sáng cho những con ngưòi này!
Cái lương tri đã cho một con ngưòi nhìn ra giá trị nhân quyền của chính mình và giá trị nhân quyền của những con ngưòi khác trong tinh thần công lý và bình đẳng! Cái lương tri đã cho họ biết xót xa và thâm cảm với nỗi đau của ngưòi khác! Chia sẻ những bất hạnh đắng cay cùng cực của ngưòi chung quanh để biết và can đảm phẫn nộ!
Cái lương tri đã cho họ tinh thần vô ưu vô úy để từ đó hành xử tự do, tự tại và an nhiên trong mọi tình huống! Những hiểu biết, kiến thức chuyên môn hay tổng quát khác sẽ bổ xung và giúp họ cống hiến cho xã hội hữu hiệu hơn.
Thưa bạn trẻ! Như vậy chỉ còn một nơi mà mọi ngưòi sẽ đưọc là Con Ngưòi, đó chính là lương tri nhân bản của chính mình bạn ạ!
Bạn nghĩ thử xem có phải không?
Nếu chính bạn không có cái lương tri nhân bản đó, thì dẫu bạn có ở ngay giữa cơ chế dân chủ, tự do bạn cũng sẽ không thấy có tự do, dân chủ!
Vì một là, chính bạn sẽ vi phạm nhân quyền công lý với người khác- hay ngược lại bạn sẽ trở thành nạn nhân nhẫn nhịn và im lặng chịu đựng bị những ngưòi khác vi phạm nhân quyền nhân phẩm của bạn!
Chắc bạn thấy nó có vẻ trừu tượng lắm phải không? Tôi giả sử, cho bạn ở trong một cộng đồng xã hội mà không còn đưọc một ngưòi có lương tri nhân bản thì nó sẽ như thế này đây! Bạn có thấy xã hội Bắc Hàn không? Một xã hội “ổn định” và lặng lẽ nặng nề! Mọi ngưòi chỉ biết nín nhịn và sống như nhũng con heo, con chó trong chuồng! cả một xã hội không có lấy một ngưòi đối kháng, đối lập, đấu tranh!!!
Ðấy! bây giờ có lẽ bạn đã thấy mình may mắn vì ít ra trong xã hội của Viêt Nam mình vẫn còn những ngưòi còn có lương tri nhân bản. Những ngưòi an nhiên tự do tự tại, dám ăn, dám nói, dám ngồi tù vì công lý, vì nhân phẩm của mình và cho những ngưòi khác!
Bây giờ xin hỏi ngưọc lại bạn trẻ một câu hỏi trưóc khi chia tay! “ Bạn có cái lương tri nhân bản này không?”
Nếu bạn không có cái điểm cơ bản và then chốt này, bạn đừng thắc mắc và kỳ vọng hay chỉ trích than phiền điều gì nữa!!!
Vì nếu ngay chính trong tâm hồn của bạn không có chỗ cho một Con Người, thì dù chung quanh bạn tất cả là Con Ngưòi, trong một cơ chế tự do dân chủ, thì bạn cũng không xứng đáng là Con Người, và bạn cũng chẳng cho ai được cơ hội làm Con Ngưòi đâu! Dù ở Viêt Nam hay Mỹ, hay Úc, Ðức, Pháp, Iraq, Iran, Nam Phi v.v
Vấn đề vẫn là nó đi từ chính bản thân, chính con ngưòi của mình trước.
Khi nhìn thấy xã hội bất ổn, bất công, bất nhân, trước khi mong mỏi thay đổi, trông đợi một ai đó cất tiếng, đầu tiên, hãy moi tâm mình ra và tự hỏi: Lương tri nhân bản của tôi ở đâu? 

Nguyên Khả Phạm Thanh Chương 24-11-2002 
(Nguồn: http://duyviet.org/ )

Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011

Giải Pháp Nằm Trong Ý Chí Quyết Định Dấn Thân Hành Động Thể Hiện Nhận Thức của Mỗi Người..

 
Từ khi có những cuộc nổi dậy của quần chúng Trung đông và Bắc phi, với phương tiện và lực thông tin ngày nay, khắp nơi từ những xã hội đang sinh hoạt trong mô thức dân sự cho đến những xã hội còn bán khai nô lệ quyền lực nhà nước, chủ nghĩa quốc gia v.v đều ngỡ ngàng … và tìm mọi ngôn từ để lý giải , qui kết và dự đoán những biến chuyển nối tiếp. Những lý giải nhận định qui kết và dự đoán có nhiều khác nhau, tuy nhiên một sự kiện không thể phủ nhận, đó chính là sự THAM DỰ TRỰC TIẾP TỰ NGUYỆN  của mọi tầng lấp khuynh hướng trong quần chúng.  Đặc điểm cần ghi nhận là qua những nỗ lực và cường độ đàn áp bằng vũ lực của các nhà nước bị chống đối, chúng ta thấy rất rõ  sư THAM GIA này của quần chúng RẤT KIÊN CƯỜNG, họ bất chấp hình thức và cường độ đàn áp, từ việc bắn sẻ, bắt bớ đánh đập, và tấn công bằng cả phương tiện quân sự an ninh … Vì vậy  chính điều này đã khẳng định  việc HÀNH ĐỘNG có NHẬN THỨC của những người tham gia: Họ đã biết họ MUỐN GÌ và chấp nhận cái GIÁ PHẢI TRẢ cho ƯỚC MUỐN đó.
Từ Tunisia , xã hội có lợi tức bình quân 9,500 Mỹ kim , qua Yemen, 2,600 Mỹ kim,  rồi Ai Cập, 6,400 Mỹ kim, Jordan, 5,600 Mỹ  kim, Syria ,5200 Mỹ kim và Libya 14,900 Mỹ kim với chế độ bao cấp  kinh tế vật chất thật đầy đủ cho người dân;  và cả đến hai chế độ vương quyền hồi giáo vững chắc nhất có đời sống kinh tế vật chất tương đối rất cao trong khu vực  như Arab Seoud, (Per Capita 24,000 Mỹ Kim)  Bahrain (38,400 Mỹ Kim), người dân mọi tầng lấp cũng đang thức tỉnh. Sự kiện mà báo giói Tây phương gọi là  “ Mùa Xuân Arab” hay đúng, chính xác hơn là sự “Vùng dậy của Ả Rập”  (Arab Springs). Bởi vì việc đòi hỏi của quần chúng không đi từ khát khao đòi hỏi vật chất kinh tế  như chúng ta thấy rõ qua sự chênh lệch và khác biệt mức phát triển kinh tế của các xã hội này, mà chính là khát vọng được TỰ DO BÌNH ĐẲNG, đòi hỏi giá trị tinh thần, giá trị Con Người,  nói gắn gọn là DÂN CHỦ. Đây mói chính là điểm “thức tỉnh” mẫu số chung của người dân trong các CAO TRÀO ĐẤU TRANH BẮC PHI.  
Mẫu số chung của các chế độ chính trị đang bị phản kháng chống đối là ĐỘC TÀI, và mẫu số chung của quần chúng mọi tầng lớp của các xã hội đang vùng dậy là DÀNH LẠI TỰ DO BÌNH ĐẲNG, , đi từ nhận thức rõ về  QUYỀN CON NGƯỜI  và QUYỀN DÂN CHỦ của chính họ.
Ngoài những xã hội đang biến chuyển này, chúng ta cũng thấy nổi lên những ƯỚC MONG NÔN NÓNG của những xã hội khác ở những cấp độ khác nhau,như  Qatar, Lào, Miên, Trung,  Quốc, Viêt Nam v.v Nhưng “ước mong” cũng chỉ đi từ sự “nôn nóng” ngó ra ngó vào từ một thiểu số “bắng nhắng” lạc lõng yếu ớt nằm bẹp dí lạc lõng trong nỗ nực tuyên truyền ào ạt từ guồng máy cầm quyền cai trị trong mục tiêu đánh lạc hướng nhận thức của quần chúng.
Riêng ở Viêt Nam, từ trước và sau, từ những biến chuyển Đông Âu, cho đến những biến chuyển đấu tranh dân chủ của người dân Trung đông, tình hình quần chúng cũng vẫn không thay đổ. Trong xã hội, người dân vẫn không quan tâm ngoài cơm áo gạo tiền, và những kẻ lao xao, vẫn chỉ là những “van xin dân chủ” rồi “chờ đợi ban phát dân chủ”, rồi “kiến nghị xin cho dân chủ”? Mà cũng chỉ có từ một hai dúm người được tâng bốc và thổi phồng thành những “nhà dân chủ, nhà đối kháng, nhà tranh đấu” v.v từ các báo đài của Việt Kiều Chống Cộng, chứ không phải nổi lên từ hậu thuẫn ủng hộ của quần chúng bản xứ.
Tại sao lại có thể lạ lùng như vậy? Tại sao sự trỗi dậy của quần chúng lại xẩy ra ở những xã hội mà người dân đã từng lạc hậu thuần phục quyền lực chính trị và giáo quyền đến hàng thế kỷ, và lại xảy ra ở mức độ phát triển kinh tế khác biệt nhau như vậy? Và tại sao ở những xã hội như Viêt Nam lại lặng lẽ, và chỉ đẻ ra được những màn kịch ấm ớ như vậy? Và cũng chỉ có ở Việt nam mới có những “phong trào dân chủ xin cho và nhờ cậy ” (hiện nay còn có thêm phong trào dân chủ CHỜ THỜI, Dân Chủ Thiên Thời Điịa Lợi Nhân Hoà" nữa!!!)  quái đản như vậy?
Ở đây, Vấn đề không phải là biện pháp và thủ đoạn của bọn nhà nước chính phủ cầm quyền. Bởi có bọn nhà nước nào không thường xuyên tuyên truyền để đánh lạc hướng nhận thức quần chúng và xử dụng bạo lực quân đội và an ninh, nhân danh an ninh tổ quốc khi cần đến giải pháp đàn áp? Bọn Đảng và Nhà Nước Viêt Nam chẳng qua cũng là một thành viên của thế lực CAI TRỊ, dĩ nhiên sẽ có cùng mẫu số chung như tất cả các bọn nhà nước, nhất là bọn nhà nước độc tài. Vậy chỉ còn một nhân tố CẦN CÓ THAY ĐỔI, cần có KHÁC BIỆT đó là người dân  VIỆT NAM.  Quần chúng Viêt Nam  không có, hay chưa có cái  MẨU SỐ CHUNG của quần chúng ở những xã hội đang trỗi dậy.
Cái MẪU SỐ CHUNG đó  chính là NHẬN THỨC GIÁ TRỊ TỰ THÂN, tức là nhận thức ra được giá trị quyền làm người, quyền làm công dân của chính mình. Những cái quyền này nó đẻ ra, dựng lên PHƯƠNG TIỆN chính phủ nhà nước. Chứ không phải là nhà nước chính phủ là chủ thể  có năng lực  tạo ra hạnh phúc ấm no cho xã hội quần chúng như người Việt Nam bị nhồi nhét và tin tưởng hàng bao ngàn năm nay. Và hôm nay, cái MẪU SỐ CHUNG của  QUẦN CHÚNG trong các xã hội Tunisia, Ai cập, Syria, Yemen, Bahrian v,v là NGƯỜI DÂN KHÔNG THỪA NHẬN TÍNH CHÍNH ĐÁNG trong vai trò CAI TRỊ của BỌN NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ NỮA! 
Nhưng nhận thức giá trị tự thân này không phải bỗng nhiên “đột biến’ trong quần chúng mà có.  Nó lại càng không thể có được chỉ đơn giản từ sự hiều biết  rồi ngóng cổ mong đợi và trông chờ từ NGƯỜI KHÁC thực hiện.  Nếu ai cũng biết, cũng hiểu, rồi thò thụp vén cửa sổ nhìn ra chung quanh xem có ai “lội nước” đi trước  để mình “theo sau” với những lý do, lý cớ rất “chính đáng”, thì một cách hợp lý và thuận lý là CHẲNG BAO GIỜ CÓ CAO TRÀO ĐẤU TRANH nào cả…Bởi cả xã hội, kẻ trong người ngoài, ai cũng thể hiện cái quyền chổng mông ngồi ước mong  và NGỒI CHỜ (thời cơ Thiên Địa Nhân)  của mình.  Nhưng chắc chắn luôn luôn có một cao trào “thường trực” trong xã hội…đó là cao trào “mong chờ người khác” và cao trào “hô hoán người khác đấu tranh.”
Một cao trào đấu tranh dân chủ thật sự  nó không bao giờ có thể xảy ra ở một xã hội mà trong đó người dân không có tí hiều biết gì về chính cái quyền , cái giá trị nhân phẩm của chính họ ngoài miếng cơm manh áo; và nó càng không thể xảy ra khi mà ngay cả giới khoa bảng, giới hiểu biết của họ sống trong một nền “triết học dân tộc”- “nhân sinh quan dân tộc”  với triết lý "tối uu":  “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống”, và cái biết đó là  “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau!!!”. (chưa cần khẳng định tính ấm ớ của “triết lý” ngu xuẩn này là khôn, dại hay biết đều phải CHẾT.. mà vấn đề là lúc SỐNG, SỐNG như thế nào trước khi tất cả phải CHẾT)  
Bởi suy luận thật khoa học biện chứng và đối chiếu ngay với thực tại,  thì rõ ràng xã hội Việt nam hôm nay người ta đang chạy đua dành giật chen lấn nhau để “ăn cỗ đi trước”; và dĩ nhiên cũng rõ ràng những lãnh vực đòi hỏi phải “lội nước” thì CHẲNG THẤY AI ĐI TRƯỚC CẢ.. tất cả đều chờ “theo sau”.. . Đó là lý do chúng ta  chưa thể có, và sẽ KHÔNG THỂ CÓ CAO TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ ĐÚNG ĐẮN và ĐÍCH THẬT.  Và thế là mọi người sống trong tâm tưởng của nhà thơ vừa bệ rạc vừa  hạ cấp của  đất Vị Xuyên trong bài “Chợt Giấc” tức là “chợt tỉnh giấc ngủ”:
 Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả
Việc gì mà thức một mình ta ?. ...

Đấy! Cái não trạng và tâm trạng vừa mới có cơ hội tỉnh ra, nhận thức ra… nhưng chợt nghĩ đi nghĩ lại.. dáo dác xem có ai “thức” để “chia gánh nặng” với mình hay không? Dù vậy cũng đành, nhưng cũng không chịu khó cất bước xuống giường, sắn gấu quần xỏ dép để đi  quanh xem có ai thật sự đang thức như mình hay không, mà chỉ kịp suy bụng ta ra bụng người , hoặc trong trường hợp này là suy bụng NGƯỜI ra bụng TA rằng “thiên hạ dễ thường đang ngủ cả” để cho mình cái lý cớ chính đáng lăn đùng ra ngủ tiếp một cách êm ái…
Não trạng của quần chúng Viêt Nam và tâm trạng của những người có cơ hội BIẾT và HIỂU trước xã hội  của chúng ta  hiện nay đúng là như thế đấy! Chúng ta thức tỉnh rồi, nhưng không  đi đánh thức ngườ khác, mà  khi chỉ cho rằng (hoặc thấy rằng) người khác đang ngủ vùi, rồi bỗng nghĩ lại thấy THỨC TỈNH TRƯỚC thế này, chả biết có ai cùng với ta “chia sẻ bớt gian khồ khó khăn” trong đêm đen gần như tuyệt vọng này hay không,  thế thì thiệt thòi quá, …Tội gì mà thức tỉnh, gánh vác một mình… và quyết định NẰM VÙI NGỦ NƯỚNG…hoặc không ngủ lại được… thì lẩn quẩn trong nhà lâu lâu vạch cửa sổ ngó qua khe cửa nhìn ra ngoài NÔN NÓNG, MONG MỎI xem có ai đã thức và đã ra ngoài chưa? Nếu có người ra ngoài rồi ,mà còn ít, thì  "chưa phải là thời cơ, chưa chín mùi", cứ chờ ngóng thêm xem có thêm ai ra trước nữa không? Kẻo mình bước ra lại “hớ”!!! Cứ thế đấy đã bao năm rồi!
Chúng ta, những người có cơ hội “đột biến” biết được hiểu được, nhưng CHƯA HIỂU hay chưa NHẬN THỨC được rằng bản thân  CÁ NHÂN mỗi chúng ta nhận thức, nó mới chỉ là bước đầu của một biến chuyển xã hội, chưa đủ để tiến trình thay đổi có chuyển động lực tác động. Chúng ta còn phải có trách nhiệm liên đới ĐI VẬN ĐỘNG, đánh thức người khác cùng thức tỉnh với mình. Nó tương tự như một khu xóm có trộm hoặc cháy nhà, để bắt trộm  hoặc chữa cháy, người nhận ra đầu tiên phải khẩn cấp thét dục đánh thức mọi người cùng bắt trộm hoặc chữa cháy mới có kết quả.
Bởi  bất cứ giá trị gì của XÃ HỘI CON NGƯỜI đều phải đặt thành một NỀN, nền Nhân Bản, Nền Tự Do, Nền Công Lý, Nền  Dân Chủ , Nền Hạnh Phúc v.v tức có nghĩa GIÁ TRỊ đó là sự cộng hưởng hay  sự tổng hợp của đại đa số mà hình thành. Cá nhân mỗi chúng ta KHÔNG THỂ  CÓ  hạnh phúc, công lý, tự do, dân chủ, công bằng v,v khi những người chung quanh chúng ta  KHÔNG CÓ hoặc chưa có. Đó chính  là TÍNH LIÊN LẬP  của xã hội. Nếu không có tính liên lập xã hội, thì tất cả những cái gì thuộc CON NGƯỜI (chứ không phải thuộc động vật hai chân chỉ có bản năng sinh tồn căn bản,) tức thuộc Ý NIỆM, TINH THẦN như tình yêu, tự hào, tự ái, tự do bình đảng công lý, chân thiện mỹ v.v  không cần được đặt ra nữa.
Cho nên lịch sử của nhân loại, và chúng ta hôm nay, đã và đang chứng kiến cái MẪU SỐ CHUNG của QUẦN CHÚNG  này, nó luôn luôn được xây dựng từ những hành động vận động đơn lẻ từ NHỮNG CÁ NHÂN TIÊN PHONG, những cá nhân nhận thức trước , nhưng không chỉ đơn giản là giá trị tự thân, mà nhận thức được cả nguyên lý liên lập xã hội, trong đó TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI của mỗi CÁ NHÂN phải thực hiện với xã hội. Nhờ nhận ra nguyên lý LIÊN LẬP của CÁ NHÂN trong XÃ HỘI mà  tất cả các CAO TRÀO đều có được  tính CAN ĐẢM KIÊN TRÌ không chỉ của cá nhân một mình người vận động, mà còn là của cả một lớp người như một đam mê chân lý; nghĩa là những cá nhân có nhận thức đặt ra được MỤC ĐÍCH cụ thề, để từ đó  tiến đến HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ có PHƯƠNG PHÁP và có XẾP ĐẶT TỔ CHỨC .. Những hành động cụ thể với niềm đam mê, tính trách nhiệm liên đới này sẽ lôi kéo hấp thụ thu hút lẫn nhau, tích tụ thành khối quần chúng và trở thành CAO TRÀO  như chúng ta đang chứng kiến trước mắt.
Hãy xét thực tế hiện trạng Việt Nam mà xem. Quần chúng Viêt Nam bị bủa vây tứ phía bởi những tuyên truyền bịp bợm, vừa ru ngủ vừa  hăm dọa do một lực lượng tay sai hùng hậu cả về tài vật lẫn nhân lực. Người dân Viêt nam, nghèo đói, thiếu thốn vật chất hàng thế kỷ, từng thèm thuống từng cái quần cái áo, them thuồng ước mơ những gia dụng tầm thường vớ vẩn như bàn chải cái đồng hồ, điện thoại v.v  nay bỗng nhiên trong vài mươi năm, do phong trào kinh tế toàn cầu, sau thời kỷ chiến tranh lạnh, với nhu cầu mở rộng thị trường của các tập đoàn đại bản, những mặt hàng tiêu thụ từng là mơ ước khó đạt, nay ào ạt đẩy vào tràn ngập mặt hàng tiêu thụ, ở mức gần như ngang bằng bất cứ nơi nào trên thế giới, không còn quá cách biệt. Chỉ còn cách biệt là lợi tức khả năng mua sắm mà thôi. Xã hội Viêt Nam là một xã hội tư bản đúng nghĩa nhất của nó với những đặc tính mà Karl Max lên án.
Nhưng trớ trêu, người dân lại luôn được “nhắc nhở” rằng họ đang tiến lên XHCN, và bọn Ngụy ngục lại tối dạ cứ chúi đầu đi tìm kẻ hở lý thuyết Marx để tấn công xã hội tư bản Viêt Nam, trong khi người dân  lại đang  bị thường trực ru ngủ ve vuốt “tự ái, tự hào dân tộc” bằng những chính sách rập khuôn Trung Quốc, đầu tư hoành tráng (fixed investments) vào những “công trình” tô điểm, vẽ mặt cho nhà cầm quyền xã hội, nhưng không hũu dụng đến nền tảng phát triển hoặc nâng cao đòi sống dân sinh lẫn dân trí. Mục tiêu chỉ để chứng tỏ sự thành công của lãnh đạo (bất chấp sự khác biết quá lớn giữa Việt nam và Trung Quốc, mà ngay TQ cũng đang gặp vấn nạn với những cửa hàng vĩ đại  nhưng vắng bóng mặt hàng và khách hàng (do lợi tức còn quá thấp), những nhà máy đồ sộ nhưng vẫn không thể hoạt động đủ đế mướn công nhân tạo công ăn việc làm) điều mà nhà điêu khắc đối kháng, ông Ai Wie Wie đã cảnh cáo là “tất cả mọi người dân TQ phải trả giá” cho sự hoành tráng khoe khoang của Đảng và giới cầm quyền. 
Song hành với những màn kịch do bọn Đảng và guồng máy cầm quyền, lại thêm những trò dối trá khoa trương của bọn chống cộng tàn dư của chế độ Ngụy VNCH còn tồn đọng, đặc biệt là tại Mỹ. Bọn này là chuyên gia sản xuất tin đồn vặt vãnh và những bức tranh hoang tưởng không thật về nước Mỹ, một nước Mỹ “vì dân chủ toàn cầu” trong trí tưởng tượng của họ. Cho nên, cả hai thế lực Phỉ -Ngụy này nó đẻ ra hàng loạt những thông tin đã không chuẩn xác lại phi dân chủ, phi dân trí… Nội dung, một bên chỉ đầy đặc những xúi dục và  tố Cộng vớ vẩn, và bi quan hóa Viêt Nam, như mỉa mai bóng gió những chuyện vụn vặt trẻ con v.v Bên kia, đối nghịch lại là những tán tụng ngợi ca Đảng, thành quả nhà nước, thi thoảng pha lẫn những nhận định phê phán cực kỳ xu nịnh với  những diễn giải vừa lố bịch trơ trẽn, vừa không có tính xác thật của kiến thức căn bản nhất, dù là kinh tế, xã hội hay chính trị. (cứ xét đơn kiện và những đòi hỏi của nhà đại khoa bảng Cù Vũ là biết.)
Cả hai chiều thông tin tuyên truyền này, đều xoay vần chung quanh chủ nghĩa Ái quốc, quốc gia dân tộc để tấn công nhau và tâng bốc phe mình. Nó đẻ ra những màn kịch cực kỳ nguy hại như những nhóm “dân chủ xin cho” “dân chủ mong chờ” v.v gồm đủ thành phần đứng đầu bảng xã hội như đám mệnh danh Lão Thành, Giáo Sư Tiến Sĩ, Tăng Lữ, Tu sĩ , Linh Mục, Hòa Thượng v.v  với những phát biểu cực kỳ lạc hậu, ấm ớ và  ngây ngô phi dân trí, không có một tí kiến thức căn bản về chính trị, về dân chủ, pháp luật v.v.. Tất cả những thứ rác rưởi này, nó tràn ngập từ mặt đất cho đến trên thế giới ảo trang mạng chính qui, những trang tạp bút cá nhân. Thế nhưng những bài viết phản biện, lý giải nhận định vạch ra những bịp bợp phi kiến thức của hai thế lực này lại cực kỳ hiếm hoi. Hiếm hoi không chỉ so với số lượng của cả hai thế lực Phỉ và Ngụy, mà hiếm hoi so ngay với số  người đã có  nhận thức. Bởi số người nhận thức có được nếu là MƯỜI, thì hành động trách nhiệm dấn thân thực tiễn cũng chỉ mới có MỘT.
Người dân Viêt Nam, những ai có thiện chí muốn đi tìm sự hiều biết đúng đắn cũng không biết xoay vào đâu? Và  hệ quả là LÀM SAO MÀ CÓ ĐƯỢC MỘT CAO TRÀO QUẦN CHÚNG khi  mà  quần chúng không chỉ ngủ vùi mà còn bị xông thuốc mê từ mọi phía, không gian dày đặc độc tố hủy hại dân trí,  và KHÔNG AI NỖ LỰC MỞ TOANG CỬA RA và ĐÁNH THỨC HỌ?
Vấn đề hôm nay không còn đơn giản chỉ là dân trí người dân Viêt Nam chưa có, hoặc thấp kém nữa,  mà chính là ở chỗ những người biết trước hiểu được chưa NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN để biến sự nhận thức hiểu biết tiên phong của mình thành hành động cụ thể trong tinh thần và nguyên lý trách nhiệm liên đới của mỗi cá nhân trong một xã hội, nhất là trong vị trí TIÊN PHONG không chọn lựa của mình trong hoàn cảnh xã hội đương thời.
Giải pháp nằm trong ý chí quyết định dấn thân hành động  thể hiện nhận thức của mỗi cá nhân con người trong xã hội. Không có hành động cụ thể của một cá nhân, từ một cá nhân thì chẳng bao giờ có cao trào trong xã hội. Bởi vì quốc gia, xã hội, hay cao trào v.v chỉ là cái tên để gọi sự tổng hợp của nhiều cá nhân chung sức lại mà thôi. Con số một, mười, một trăm, một triệu v.v chỉ là cái tên để chỉ NHỮNG CON SỐ MỘT GOM CHUNG LẠI.. Không có MỘT, và nhiều cái MỘT HỢP LẠI để khởi đầu làm sao có được MỘT TRIỆU???


NKPTC
29/4/2011
(Nguồn:  http://duyviet.org/?q=node/603&page=show )

Kỷ Niệm 30/4 : Một Niềm Vui, Ba Nỗi Buồn

Hôm nay 30-4 năm 2011, 36 năm đã trôi qua, thời gian tưởng là làm nhạt nhòa ký ức, nhưng hình ảnh hệ quả của 30-4 nó còn hiện rõ từng chi tiết trong đầu. Không phải vì Tôi cố nhớ nó, mà 30-4 với những hệ quả kéo dài đến hôm nay, chính nó đã buộc thằng Tôi phải nhớ nó. Và Tôi đã nhớ rất rõ cái cảm xúc của một niềm vui và ba nỗi buồn của riêng Tôi với ấn dấu 30-4-1975. 
Với Tôi, biến cố 30- 4 đầu tiên là một niềm vui không thể nhầm lẫn. Vui vì cuộc chiến tương tàn, dài đăng đẳng đầy man rợ phi nghĩa  đã chấm dứt. Chiến tranh, dù vì bất cứ lý do gì, nguyên nhân nào đều ghê tởm, không chỉ vì nó tàn phá làng mạc, đất đai, tàn sát nhân mạng, mà chính vì nó  tàn hủy nhân tính, băng hoại con người. Chiến tranh chỉ có lợi cho bọn bất nhân, vì nó luôn là cái cớ cho não trạng độc tài  quân phiệt phát huy bản năng thú vật của loài thượng đẳng hai chân, và cuối cùng chiến tranh muôn đời luôn luôn là trò làm tiền của bọn gian manh bất nhân , đúng như tướng thủy quân lục chiến Mỹ ông Smedley Butler (1881-1940) đã vạch ra trong bài diễn thuyết “chiến tranh là trò làm tiền gian manh” (War is a Racket). Chiến tranh  nó ghê tởm đến độ đại tướng Eisenhower, người từng chỉ chỉ liên quân đồng minh trong thế chiến thứ hai và sau này là tổng thống thứ 34 của Mỹ, đã phải thốt ra:
 Tôi căm ghét Chiến Tranh chỉ vì Tôi là một người lính từng sống trong đó có thể ghét, chỉ vì là người đã thấy sự tàn bạo của nó, sư vô ích của nó, sự ngu xuẩn của nó....... Từng khẩu súng được chế tạo, từng chiến hạm ra khơi, từng trái pháo được bắn đi, biểu hiện trong một ý nghĩa cuối cùng là một hành động ăn cắp của những người đói khổ mà không có ăn, của những người chết rét mà không có mặc..(I hate war as only a soldier who has lived it can, only as one who has seen its brutality, its futility, its stupidity.......Every gun that is made, every warship launched, every rocket fired, signifies in the final sense a theft from those who hunger and are not fed, those who are cold and are not clothed. Four Star-General-President of The USA, Dwight D. Eisenhower)
Không những vậy, với tư cách là vị tướng kinh nghiệm dày dạn, nếm đủ mùi chiến tranh tàn bạo, một tổng thống của quốc gia hùng mạnh còn sót lại sau thế chiến, trong bài diễn văn từ biệt hết nhiệm kỳ, giã từ chính trường, Ông đã cảnh báo người Mỹ và thế giới về hiểm họa chiến tranh do bọn đầu cơ kỹ nghệ vũ khí tiến hành. Bọn trục lợi và sùng bái quyền lực sẽ tạo chiến tranh bằng mọi cách.
Vì thế, Tôi không chỉ vui mừng hơn cả những người lính ngoại nhân tham chiến còn sống sót trở về quê hương của họ, mà còn vui mừng chúc lành cho họ, đã còn có thể sống sót trở về đoàn tụ với thân nhân gia đình, dù biết chắc rằng sau cuộc chiến man rợ phi nghĩa đó, nhiều cuộc đời con người đã không thể còn toàn vẹn được nữa.
Đó chính là lý do Tôi vui mừng khi biến cố ngày 30-4-1975 xảy đến. Tôi kinh tởm chiến tranh. Chỉ có vậy thôi.
Tôi không còn là người đần độn bị ám hữu bởi chủ nghĩa ái quốc, quốc gia dân tộc, cho nên cái lý cớ “thống nhất đất nước” với tôi, nó không chỉ thừa thãi vô ích mà còn đê tiện và nguy hiểm. Bởi hôm nay đây, không chỉ những con người ở những xã hội dân chủ văn minh người ta rời bỏ nơi này để sống ở nơi khác phù hợp với hạnh phúc của họ hơn, rồi đôi lúc quay trở lại thăm quê cũ như là một du khách bình thường và hạnh phúc; mà người Việt nam hôm nay, khi có điều kiện cũng đang hành xử như thế, và cũng rất hạnh phúc chính đáng. Hơn thế nữa, không chỉ ở cương vị cá nhân con người tự tại, thoát khỏi căn bệnh ái quốc ái quần tổ quốc tổ cò, mà ngay cả ở mức độ một cộng đồng xã hội, người ta cũng không nhất thiết bị ràng buộc pháp lý  hay tinh thần với mảnh đất hay cái tên của một hiện thể chính trị  quốc gia, chỉ vì họ được sinh ra ở đó một cách ngẫu nhiên không có chọn lựa.  Như QueBec trưng cầu dân ý để tách ra khỏi Canada, hay Vermont đang tiến hành vận động trưng cầu dân ý tách ra khỏi Mỹ, hoặc Đài Loan muốn độc lập tách hẳn khỏi Trung Quốc v.v Người ta đã tiến xa hơn, tầm nhìn rộng hơn với giá trị NHÂN PHẨM làm nền tảng, và người ta chỉ trân trọng tìm đến mảnh đất nào , liên đới với xã hội nào có chủ trương vinh danh Con Người, chăm chút nhân phẩm và hạnh phúc tự do của thành viên, của công dân, thì đó là đất nước của họ. Đó là chưa kể những tổ quốc tổ cò đã biến mất như tổ  quốc “Liên Xô vĩ đại”.
Cho nên, ví giả mà nói, đừng vì những trò chính trị bẩn thỉu bất nhân của bọn đầu nậu quyền lực như Hồ ,Diệm, Nga, Mỹ v.v cứ để “nước Nam” và “nước Bắc” độc lập mà sống, mà phát triển theo năng lực ý thích của mình, chẳng cần thống nhất thống nhéo gì, miễn đời sống tự do dân chủ hạnh phúc là tốt. Nếu giả như bây giờ Viêt Nam có tách làm 3 để MỌI NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, Tôi ủng hộ cả cuộc đời tôi cho nhu cầu VÀ MỤC ĐÍCH CHÍNH ĐÁNG này. Bởi Tôi cũng đang thấy trước mắt Tôi, nơi Tôi đang sống, những con người dù có cùng văn hóa ngôn ngữ, nhưng thành lập những quốc gia xã hội khác nhau mà không cần thống nhất, như Ấn, Hồi, Bangladesh, Anh Mỹ, Canada, Tân Tây Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore v.v Người ta sống vui hơn hạnh phúc hơn, tự do hơn, ý nghĩa hơn, và xứng đáng hơn! Chứ chẳng mất mát hay đau khổ gì khi “xa tổ quốc tổ cò , hay thiếu vắng tổ tiên, dân tộc  giống nòi gì  cả”. Đó là chưa nói nhiều lúc phải đánh vào mặt thằng "tổ quốc tổ tiên" để thoát khổ đau, thoát nô lệ như Mỹ, như Úc như Đài Loan v.v  Người ta sáp lại, nối kết với nhau khi nhu cầu cần thiết để cùng xây dựng một xã hội tốt hơn vì nhau và cho nhau,  và  chỉ bằng  sự tự nguyện đồng thuận, chứ không bằng bạo lực cưỡng ép áp đặt. Bạo lực không bao giờ đưa đến điều gì tốt đẹp. Đấy, cái  tính “thống nhất bằng bạo lực” qua sự man rợ bịp bợm của chủ nghĩa ái quốc dân tộc, nó làm cho tôi có nỗi buồn thứ nhất về ngày 30-4.
Chính cái tính ái quốc dân tộc bịp bợm này, càng ngày nó càng làm con người có cái tên Việt Nam cứ càng xa nhau, thù nhau “đậm đà bản sắc dân tộc” hơn trước nữa. 
Ngay sau 30-4-75, cũng nhân danh bảo vệ tổ quốc, an ninh tổ quốc, những thằng chiến thắng từ mảnh đất phía Bắc đã cai trị kẻ đồng bào bại trận của nó  ở phía Nam như cai trị thuộc địa chiếm đóng. Thái độ hành xử thực dân cai trị trong một đất nước này kéo dài cho đến bây giờ chưa thôi.
Đảng CSVN, Nó và một số người dân cùng quan điểm với nó, hành xử với người miền Nam bại trận bằng cả phong cách và chính sách chiếm đóng và cưỡng đoạt; Nó chia thành phần, vùng miền trong mọi lãnh vực sinh hoạt của đòi sống xã hội miền Nam sau 30-4 1975. Chính sách xét duyệt LÝ LỊCH được TẬN DỤNG và TRIỆT ĐỂ trong mọi lãnh vực.
Và những thằng bại trận bỏ chạy cũng vậy, cũng vẫn nhân danh ái quốc tổ cò, dù đã thành công dân xứ người,  cũng phân chia thành phần vùng miền ngay trong cái thóm hỏm sinh hoạt nơi xứ người, để rồi hành xử co cụm thu hẹp trở thành nhỏ bé , đố kỵ, và hung tợn bạo ngược với lá cờ ba que đã thành tấm giẻ rách. Nhưng đám người bại trận bỏ chạy bày vẫn cứ nhân danh tổ quốc ba que giẻ rách để thành lập một “đại công ty chính nghĩa chống cộng” chuyên phao tin đồn và nhân danh “đại nghĩa chống cộng” hung hăng đòi chỉ đạo can thiệp vào đời sống xã hội người Việt Kiều, dù càng ngày càng yếu đi sau 36 năm. Trong đất nước Viêt nam một bọn bán khai bạo ngược toàn trị với thể chế độc tài tư bản phong kiến. Bên ngoài bọn tàn dư Ngụy ngục thiết lập thể chế chống cộng chuyên trị tung tin đồn và hoang tưởng.
Nỗi buồn thứ hai, nếu có thể tách ra được, nhưng kỳ thực nó cũng chính là sự nối dài của nỗi buồn thứ nhất. Đó là sau 30-4-1975, thay vì là một cơ hội mới để xóa sổ những ngu xuẩn và hận thù giả dối để  KHỞI CÔNG XÂY DỰNG LẠI XÃ HỘI và CON NGƯỜI có cái tên hiện thể là VIỆT NAM, tất cả đã bắt đầu “nền hòa bình thống nhất” bằng sự TRẢ THÙ.
Sự trả thù trong chiến tranh đã là man rợ tàn độc, nhưng sự trả thù trong “hòa bình và thống nhất” thì quả thật nó đã phơi bày sự ti tiện và bạo ngược đến cùng cực của tính man di bán khai nơi con người và chế độ của đảng CSVN. Cả một nửa đất nước xã hội bị đối xử như bày nô lệ bị chiếm đóng, dĩ nhiên những cá nhân thành phần của chế độ Ngụy chắc chắn phải lãnh nhận sự trả thù này nặng nề và nhãn tiền! Tất cả con người miền Nam, kể cả một số những thành phần từng theo tập kết ra Bắc, bị tước đoạt trần truồng từ vật chất đến tinh thần, không còn một chút gì dính lại là hình dáng Con Người . Nhà nước chính phủ thiết lập những đối sách cai trị đi từ sự ngờ vực, đố kỵ họ, sợ hãi họ, rồi soi mói rình mò họ, và trù dập đủ kiểu. Còn anh em bè bạn thân quyến, sau hơn 20 năm cách biệt, khi “đoàn tụ” lại nhẫn tâm bất lương ăn cắp hết phần còn lại, không chỉ là của cải vật chất, mà ngay chính những tình cảm con người nhỏ bé thân thuơng nhất còn xót lại sau cuộc chiến, cũng bị "đồng bào thân nhân thuộc phe chiến thắng" lưu manh trơ trẽn cuỗm đi, nhiều khi rất sống sượng, trong những ngày tháng đầu của 30-4. Và rồi tất cả người Việt Nam sau đó vài năm, họ, tất cả, bị đặt vào một thể chế, mà để tồn tại trong đó như một sinh vật, họ phải quay ra ăn cắp của nhau, lừa đảo thật sống sượng, chà đạp lên nhau thật bất nhân... không kém phần man rợ của Cải Cách Ruộng Đất là bao xa, thời kỳ mà anh em cha mẹ vợ chồng bè bạn  triệt hạ nhau phi nhân tính!
Sau 30-4 vài năm, một số lớn người Viêt Nam đi vượt biên, và sự trả thù ti tiện này họ đã không để lại nơi đất nước Viêt Nam cho cái chế độ Độc tài đảng trị, họ đem theo và vẫn tiếp tục tiến hành bởi những thằng lính, gã công chức thất trận. Chúng nó đẩy đòn thù lên gần như bất cứ ai không phủ phục chúng nó, từ trên đảo tị nạn tạm cư, cho đến khi đã định cư tại một quốc gia khác. và việc ăn cắp những niềm tin vào tình người , vào nhau, dù nhỏ bé nhất tiếp tục xảy ra, nhân danh tự do, tị nạn, và chống cộng.
Nỗi buồn cuối cùng, chẳng qua cũng là hệ quả của hai nỗi buồn trước nó, chính là sự phá sản băng hoại toàn diện nhân trí của những con người có nhãn hiệu Việt Nam. Những gì còn có thể gọi là chân, là thiện là mỹ, còn sót lại trong thời chiến tranh, đặc biệt là niềm hy vọng cuối cùng không chỉ là vào “hòa bình, thống nhất,” mà vào chính phần lương tâm con người tối thiểu của nhau,  tất cả cũng đã bị hoàn toàn tiêu hủy sau 30-4. Hệ quả của nó kéo dài đến hôm nay, sau 36 năm, xã hội Việt Nam và con người Viêt Nam dù đã bị THỊ TRƯỜNG TOÀN CẦU mở tung ra, và khoác vào cho họ cái áo vật chất văn minh hoành tráng dù là giả tạo, nó càng làm lộ rõ nét bán khai vô nhân tính của toàn thể xã hội và con người. Tất cả vội vã, chen lấn, chà đạp lên nhau để gom góp và tích lũy của cải, vội vã luống cuống tiêu thụ ngây ngô  và vụng về hưởng thụ.
Trong khi đó, cũng sau 36 năm, những kẻ ra đi sống chung với văn minh và nhân bản, cũng không khá hơn, mà còn băng hoại hơn, cũng chỉ vì bám víu vào hận thù và quyền lực, vào chủ nghĩa ái quốc dân tộc, vào ấn tượng sai lệch và sai lầm của 30-4. Toàn bộ thế hệ đi trước của cả hai phe đối nghịch nhau đã tiêu diệt cơ hội hướng thiện, vươn lên của thế hệ đi sau.  
Việt Nam hôm nay, đã có hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn du học sinh, đầu tư nước ngoài, và  có  một đội ngũ khoa bảng được đào tạo từ các trường đại học hàng đầu của nhân loại, nhưng não trạng trống rỗng và bần tiện hơn, lanh vặt và lưu manh hơn, có phương pháp hơn. Bởi lớp người này chỉ dùng phương tiện khoa bảng để kiếm cơm và tìm quyền lực. Bên ngoài Viêt Nam, thế hệ thứ hai, thứ ba của những kẻ thất trận bỏ chạy và ra đi, cũng có khoảng trên dưới hàng trăm ngàn khoa bảng chuyên gia, nếu chưa muốn nói là tổng quát là con số hàng triệu có cử nhân là căn bản. Thế nhưng tòan bộ sinh hoạt tinh thần xã hội, giá trị dân sự vẫn là con số không!!!
Thế hệ cha mẹ họ, và thể chế chính trị, thật sự hay giả tạo, nếp sống xã hội của cha mẹ họ áp đặt, đã ăn cắp đi đức tính cần thiết đam mê kiến thức, đam mê ý nghĩa, giá trị cuộc sống trong con người của họ mất rồi. Chỉ còn lại QUYỀN và LỢI với cái triết lý ngu ngục hạ cấp “khôn chết, dại chết, biết sống.”
36 năm, dù đã quá chậm trễ để xóa sổ làm lại, nếu tính theo một đời người, một thế hệ. Nhưng với tính nối dài miên tục của một xã hội, một đất nước, và cả tiến trình nhân loại này, thì việc xóa sổ cái sai cũ để khởi đầu tiến hành cái mới tốt đẹp không bao giờ sớm, và chẳng bao giờ muộn màng hết cả. Phải xóa sổ hết những ám hữu của những định kiến cũ để khởi đầu xây dựng nhận thức về một xã hội dân sự của những con người có tên là Viêt Nam. Xây dựng sự nhận thức về chính giá trị tự thân, tức là xây dựng lại NHÂN TRÍ để kiến tạo nền DÂN TRÍ cho xã hội.
Và tất cả cũng vẫn phải khởi đầu bằng những nỗ lực từ những cá nhân đơn lẻ đi trước.  Phải can đảm và sáng suốt gác bỏ những ngăn trở do chính mình tự kỷ tạo ra.  Thể hiện rốt ráo tính liên đới trách nhiệm của cá nhân Con Người. Mảnh đất  Con Người Việt nam đang cần được vun xới bằng quả cảm kiên trì và công chính, để những hạt giống nhân bản có thể nẩy mầm, và rồi sẽ thành những cánh đồng bát ngát giá trị tự thân, nơi đó NỀN DÂN CHỦ có TỰ DO BÌNH ĐẲNG  sẽ được xây dựng vững chắc. Hạnh phúc của mỗi cá nhân, của chúng ta, và của cả nhân loại này cũng được xây dựng từ căn bản đó.
30-4-2011
NKPTC  
  
Tham Khảo Thêm:
Diễn văn của Eisenhower, cảnh báo về bọn tập Đoàn Kỹ Nghệ Chiến Tranh.

Military-Industrial Complex Speech, Dwight D. Eisenhower, 1961

Public Papers of the Presidents, Dwight D. Eisenhower, 1960, p. 1035- 1040
My fellow Americans:
Three days from now, after half a century in the service of our country, I shall lay down the responsibilities of office as, in traditional and solemn ceremony, the authority of the Presidency is vested in my successor.
This evening I come to you with a message of leave-taking and farewell, and to share a few final thoughts with you, my countrymen.
Like every other citizen, I wish the new President, and all who will labor with him, Godspeed. I pray that the coming years will be blessed with peace and prosperity for all.
Our people expect their President and the Congress to find essential agreement on issues of great moment, the wise resolution of which will better shape the future of the Nation.
My own relations with the Congress, which began on a remote and tenuous basis when, long ago, a member of the Senate appointed me to West Point, have since ranged to the intimate during the war and immediate post-war period, and, finally, to the mutually interdependent during these past eight years.
In this final relationship, the Congress and the Administration have, on most vital issues, cooperated well, to serve the national good rather than mere partisanship, and so have assured that the business of the Nation should go forward. So, my official relationship with the Congress ends in a feeling, on my part, of gratitude that we have been able to do so much together.
II.
We now stand ten years past the midpoint of a century that has witnessed four major wars among great nations. Three of these involved our own country. Despite these holocausts America is today the strongest, the most influential and most productive nation in the world. Understandably proud of this pre-eminence, we yet realize that America's leadership and prestige depend, not merely upon our unmatched material progress, riches and military strength, but on how we use our power in the interests of world peace and human betterment.
III.
Throughout America's adventure in free government, our basic purposes have been to keep the peace; to foster progress in human achievement, and to enhance liberty, dignity and integrity among people and among nations. To strive for less would be unworthy of a free and religious people. Any failure traceable to arrogance, or our lack of comprehension or readiness to sacrifice would inflict upon us grievous hurt both at home and abroad.
Progress toward these noble goals is persistently threatened by the conflict now engulfing the world. It commands our whole attention, absorbs our very beings. We face a hostile ideology -- global in scope, atheistic in character, ruthless in purpose, and insidious in method. Unhappily the danger is poses promises to be of indefinite duration. To meet it successfully, there is called for, not so much the emotional and transitory sacrifices of crisis, but rather those which enable us to carry forward steadily, surely, and without complaint the burdens of a prolonged and complex struggle -- with liberty the stake. Only thus shall we remain, despite every provocation, on our charted course toward permanent peace and human betterment.
Crises there will continue to be. In meeting them, whether foreign or domestic, great or small, there is a recurring temptation to feel that some spectacular and costly action could become the miraculous solution to all current difficulties. A huge increase in newer elements of our defense; development of unrealistic programs to cure every ill in agriculture; a dramatic expansion in basic and applied research -- these and many other possibilities, each possibly promising in itself, may be suggested as the only way to the road we wish to travel.
But each proposal must be weighed in the light of a broader consideration: the need to maintain balance in and among national programs -- balance between the private and the public economy, balance between cost and hoped for advantage -- balance between the clearly necessary and the comfortably desirable; balance between our essential requirements as a nation and the duties imposed by the nation upon the individual; balance between actions of the moment and the national welfare of the future. Good judgment seeks balance and progress; lack of it eventually finds imbalance and frustration.
The record of many decades stands as proof that our people and their government have, in the main, understood these truths and have responded to them well, in the face of stress and threat. But threats, new in kind or degree, constantly arise. I mention two only.
IV.
A vital element in keeping the peace is our military establishment. Our arms must be mighty, ready for instant action, so that no potential aggressor may be tempted to risk his own destruction.
Our military organization today bears little relation to that known by any of my predecessors in peacetime, or indeed by the fighting men of World War II or Korea.
Until the latest of our world conflicts, the United States had no armaments industry. American makers of plowshares could, with time and as required, make swords as well. But now we can no longer risk emergency improvisation of national defense; we have been compelled to create a permanent armaments industry of vast proportions. Added to this, three and a half million men and women are directly engaged in the defense establishment. We annually spend on military security more than the net income of all United States corporations.
This conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience. The total influence -- economic, political, even spiritual -- is felt in every city, every State house, every office of the Federal government. We recognize the imperative need for this development. Yet we must not fail to comprehend its grave implications. Our toil, resources and livelihood are all involved; so is the very structure of our society.
In the councils of government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought, by the militaryindustrial complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will persist.
We must never let the weight of this combination endanger our liberties or democratic processes. We should take nothing for granted. Only an alert and knowledgeable citizenry can compel the proper meshing of the huge industrial and military machinery of defense with our peaceful methods and goals, so that security and liberty may prosper together.
Akin to, and largely responsible for the sweeping changes in our industrial-military posture, has been the technological revolution during recent decades.
In this revolution, research has become central; it also becomes more formalized, complex, and costly. A steadily increasing share is conducted for, by, or at the direction of, the Federal government.
Today, the solitary inventor, tinkering in his shop, has been overshadowed by task forces of scientists in laboratories and testing fields. In the same fashion, the free university, historically the fountainhead of free ideas and scientific discovery, has experienced a revolution in the conduct of research. Partly because of the huge costs involved, a government contract becomes virtually a substitute for intellectual curiosity. For every old blackboard there are now hundreds of new electronic computers.
The prospect of domination of the nation's scholars by Federal employment, project allocations, and the power of money is ever present
  • and is gravely to be regarded.
Yet, in holding scientific research and discovery in respect, as we should, we must also be alert to the equal and opposite danger that public policy could itself become the captive of a scientifictechnological elite.
It is the task of statesmanship to mold, to balance, and to integrate these and other forces, new and old, within the principles of our democratic system -- ever aiming toward the supreme goals of our free society.
V.
Another factor in maintaining balance involves the element of time. As we peer into society's future, we -- you and I, and our government -- must avoid the impulse to live only for today, plundering, for our own ease and convenience, the precious resources of tomorrow. We cannot mortgage the material assets of our grandchildren without risking the loss also of their political and spiritual heritage. We want democracy to survive for all generations to come, not to become the insolvent phantom of tomorrow.
VI.
Down the long lane of the history yet to be written America knows that this world of ours, ever growing smaller, must avoid becoming a community of dreadful fear and hate, and be instead, a proud confederation of mutual trust and respect.
Such a confederation must be one of equals. The weakest must come to the conference table with the same confidence as do we, protected as we are by our moral, economic, and military strength. That table, though scarred by many past frustrations, cannot be abandoned for the certain agony of the battlefield.
Disarmament, with mutual honor and confidence, is a continuing imperative. Together we must learn how to compose differences, not with arms, but with intellect and decent purpose. Because this need is so sharp and apparent I confess that I lay down my official responsibilities in this field with a definite sense of disappointment. As one who has witnessed the horror and the lingering sadness of war -- as one who knows that another war could utterly destroy this civilization which has been so slowly and painfully built over thousands of years -- I wish I could say tonight that a lasting peace is in sight.
Happily, I can say that war has been avoided. Steady progress toward our ultimate goal has been made. But, so much remains to be done. As a private citizen, I shall never cease to do what little I can to help the world advance along that road.
VII.
So -- in this my last good night to you as your President -- I thank you for the many opportunities you have given me for public service in war and peace. I trust that in that service you find some things worthy; as for the rest of it, I know you will find ways to improve performance in the future.
You and I -- my fellow citizens -- need to be strong in our faith that all nations, under God, will reach the goal of peace with justice. May we be ever unswerving in devotion to principle, confident but humble with power, diligent in pursuit of the Nation's great goals.
To all the peoples of the world, I once more give expression to America's prayerful and continuing aspiration:
We pray that peoples of all faiths, all races, all nations, may have their great human needs satisfied; that those now denied opportunity shall come to enjoy it to the full; that all who yearn for freedom may experience its spiritual blessings; that those who have freedom will understand, also, its heavy responsibilities; that all who are insensitive to the needs of others will learn charity; that the scourges of poverty, disease and ignorance will be made to disappear from the earth, and that, in the goodness of time, all peoples will come to live together in a peace guaranteed by the binding force of mutual respect and love.

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

CON ĐƯỜNG DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM: DÀI HAY NGẮN?

“Nếu quần chúng nhân dân không còn lưu tâm đến công việc chính trị xã hội, thì các Ông và Tôi, và Quốc Hội, Lập Pháp, Chánh Án, Thống Đốc, tất cả sẽ trở thành những con Chó Sói. Điều này dường như là luật tự nhiên  thuộc bản chất tổng quát của chúng ta, cho dù có vài ngoại lệ cá nhân.” Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson nói với dân biểu  Edward Carrington.

(If once [the people] become inattentive to the public affairs, you and I, and Congress and Assemblies, Judges and Governors, shall all become wolves. It seems to be the law of our general nature, in spite of individual exceptions." : Thomas Jefferson to Edward Carrington, 1787)


Lịch sử xã hội chính trị nhân loại là sự thống trị của các thế lưc thiểu số, tập quyền qua các hình thức  bộ lạc tập quyền, phong kiến vương quốc, đế quốc , độc tài v.v cai trị bằng đàn áp đại đa số quần chúng. Con ngưòi bị đàn áp bằng bạo lực để buộc phải chập nhận vị thế “nô lệ” của mình, thừa nhận tính “chính đáng” của quyền lực chuyên chế  thiểu số.  Điều này vô hình chung đã trở thành truyền thống và mang tính CHÍNH THỐNG trong não trạng của CON NGƯÒI NÓI CHUNG. Cho đến khi có nỗ lực KHAI PHÓNG VẬN ĐỘNG về ý niệm quyền lực của quần chúng từ Đông qua Tây,  từ lúc yếu, đơn lẻ, (như Mạnh Tử) đến lúc mạnh lan rộng (như J, Rouseau, Thomas Paine), đây chính là sự ra đời của ý thức dân chủ.  Và khi quần chúng ý thức và tập hợp được đấu tranh khẳng định được vị thế con ngưòi, vị thế làm chủ của chính mình, đây là lúc TINH THẦN TỰ DO- NỀN DÂN CHỦ ĐƯỢC KIẾN TẠO. 

Ý thức dân chủ, có nghĩa là ngưòi dân, quần chúng ý thức và khẳng định  được vị trí công dân của mình bằng giá trị tự do của con ngưòi thể hiện qua những quyền hạn của ngưòi dân, của quần chúng chống lại thế lực độc tài áp đặt của hệ thống nhà nước.  Lịch sử xã hội nhân loại chỉ được thay đổi tòan diện khi quần chúng đứng dậy, đối nghịch với thế lực nhà nước để dành lại quyền hạn con người của mình.  Và ý thức dân chủ này được thể hiện thành công đầu tiên tại nước Mỹ 1774. Sau đó ý thức dân chủ lan rộng đến những quốc gia khác trong những thời điểm khác nhau. Nhưng nền tảng căn bản vẫn là SỰ Ý THỨC DÂN CHỦ của quần chúng xã hội đó.  Lịch sử này XÁC ĐỊNH RẰNG, nền DÂN CHỦ đưọc kiến tạo bằng sự ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI THẾ LỰC NHÀ NƯÓC,  buộc thế lực NHÀ NƯÓC TỪ VỊ THẾ TOÀN TRỊ ĐỘC TÀI BẰNG ÁP CHẾ BẠO LỰC, phải cúi đầu dưói sự chủ đạo  đặt để  của quần chúng. Chứ không phải là sự BAN PHÁT hay TỰ NGUYỆN  thay đổi từ NHÀ NƯÓC do năn nỉ van xin, HAY DO THẾ LỰC CẦM QUYỀN TỰ Ý THỨC VAI TRÒ CỦA MÌNH..

Tiến Trình Việt Nam: Xác định vấn nạn, và khẳng định mục tiêu: Dân Chủ

Trong suốt thời kỳ phát triển cận đại của Việt Nam, vấn đề dân chủ, hay nói cho chính xác là nguyện vọng dân chủ chưa từng được đặt ra. Bao nhiêu phong trào đấu tranh vẫn chỉ là đấu tranh chính trị xoay vần từ ý thức độc lập, rồi tranh thủ giữa các thế lực chính trị quyền lực để xếp đặt hệ thống cai trị trong nền tảng định chế của phe phái NHƯNG CHƯA HỀ CÓ CUỘC VẬN ĐỘNG Ý THỨC DÂN CHỦ đến với QUẦN CHÚNG, ĐỂ QUẦN CHÚNG XÁC ĐỊNH VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA MÌNH, TỪ QUẦN CHÚNG, DO QUẦN CHÚNG THIẾT LẬP NỀN TẢNG DÂN CHỦ; trừ nỗ lực đơn lẻ của cụ Phan Chu Trinh, nhưng không một ai tiếp nối và khai triển.  

Chúng ta phải thẳng thắn  loại bỏ tính tự ái phe phái, và tự ái dân tộc hão huyền, để  nhìn nhận rõ ràng vấn nạn của chúng ta..là tầm tư duy của xã hội chúng ta, nói chung, cho đến nay chưa hề có ý thức dân chủ. Quần chúng Việt Nam chúng ta, nói chung chưa vượt lên trên được tầm nhận thức “độc lập của bầy đàn”, tư duy đồng hoá cá nhân vào CƠ CHẾ CHÍNH TRỊ,  để có TẦM NHẬN THỨC CAO HƠN: nhận thức xác định, và khẳng định vị trí CON NGƯÒI CÔNG DÂN đối trọng với CƠ CHẾ NHÀ NƯỚC, CHÍNH PHỦ.  

Nếu chúng ta không xác định được bản chất của vấn nạn, tất nhiên sẽ không hiểu được nguyên nhân, và khi không hiểu được nguyên nhân chúng ta sẽ không tìm được giải pháp đúng đắn. Không có giải pháp đúng đắn,  Chúng ta sẽ luẩn quẩn vá đắp ,và vấn nạn không những  vẫn còn đó, mà sẽ còn tệ hại hơn. Đó chính là hiện trạng Việt Nam hôm nay.

TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ VIỆT NAM:

Cái gọi là đấu tranh dân chủ hiện nay của Việt Nam, sòng phẳng mà nhận định, chỉ là cái biến dạng của sự nối dài  hai thế lực chính trị với não trạng tưy duy lạc hậu còn sót lại mà thôi, nó không phải là sự ý thức của quần chúng, chưa phải đi ra từ nguyện vọng quần chúng. Hai thế lực lạc hậu này là hệ quả của cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu, cô đọng trong xã hội Viêt Nam đưọc gọi là cuộc tương tranh Quốc Cộng. Cả hai đều tập trung vào ý thức hệ chính trị để tranh thắng, nhưng ý thức dân chủ chưa hề được đặt ra với quần chúng, và ngay cả trong sinh hoạt tư tưởng đảng phái chính trị.

Cho nên, chúng ta thấy, không kể nền tòan trị phong kiến tập quyền tại miền Bắc do Hồ Chí Minh thiết lập, trưóc năm 1975 ở miền Nam,  chúng ta chỉ thấy những thành phần bất mãn với chế độ  độc tài, quân phiệt Ngụy, liên kết với nhau để mưu toan lật đổ  để nắm quyền, hoặc chia sẻ quyền bính, chứ CHƯA HÊ CÓ MỘT NỖ LỰC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG VỀ Ý THỨC DÂN CHỦ ĐỂ XÂY DỰNG MỘT NỀN DÂN CHỦ.  Những sinh hoạt này,  nếu có hình ảnh quần chúng tham gia, cũng chỉ là bị vận động theo phương cách mị dân, lợi dụng sức dân để tiến hành chủ trương chính trị phe phái mà thôi. 

Và não trạng này vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay ở trong cũng như  ngoài nưóc. Chúng ta thấy sau ngày 30-4-1975 những nỗ lực mang tính cách đảo chính, chủ trương quân sự,  liên tục hình thành. Cho đến khi lượng người hải ngoại gia tăng, chúng ta lại thấy các thành phần của chế độ Ngụy kết hợp theo ý thức “chống cộng”, bị lập  lờ nhập nhằng với “đấu tranh tự do dân chủ”, nền tảng vẫn là lưu giữ  hình ảnh chế độ Ngụy qua biểu tượng cờ  vàng (Tôi xác định đây là  “tấm giẻ rách ba que”), chứ chưa hề có tính “DÂN” và tính “CHỦ”.

Hiện trạng này cho chúng ta thấy gần như tòan bộ nỗ lực của “phe không Cộng Sản” sau ngày 30-4-1975, đã được dồn vào việc tố cộng, đánh bóng quá khứ về chế độ cũ, vai trò Mỹ, như một mẫu mực chính đáng, chính thống đối nghịch với CSVN. “Sách lược chống cộng” truyền thống này  được duy trì bằng sự tổng hợp của  hư cấu cờ quạt, nhân vật, dữ kiện  lịch sử, và bạo lực  hăm dọa, bôi nhọ, chụp mũ tất cả những ai có ý hướng khác biệt. Nỗ lực chung là chỉ để giữ tính “chính thống”  chứ không hề khai triển ý thức cho ngưòi dân về nguyên lý  QUYỀN của ngưòi DÂN làm CHỦ . Các phương tiện thông tin trở nên cô đọng một chiều, chỉ có khả năng chứa đựng những tư tưởng tố cộng, ca ngợi VNCH, Mỹ, nhiều khi rất trẻ con và hề chèo. Hiện trạng này khiến “ngưòi cầm bút không cộng sản” chỉ viết để thỏa mãn số đông thuộc phe mình là chính, chứ không  có nỗ lực dân trí về ý thức giá trị nguyên lý DÂN CHỦ. Dĩ nhiên báo chí tư nhân hải ngoại không còn cách nào khác hơn là khuynh hướng này, vì lý do thương mại cần ngưòi đọc để bán báo; và nhất là vì áp xuất bạo lực. Vì  nếu chỉ nhúc nhích khác biệt  ý  kiến là sẽ có một rừng “giẻ rách ba que” vây kín hăm dọa khủng bố quy chụp tẩy chay, phiền nhiễu. Cho nên nội dung bài viết không chủ động tiên phong trong tư tưởng mới cho mục tiêu DÂN CHỦ, mà hầu như viết cho phe mình đọc, để được phe mình chấp nhận, cho có độc giả , tránh không bị lên án chỉ trích v.v

Hiện trạng cô đọng này có sự giảm bớt trong mấy năm gần đây..một phần do tính trơ trẽn lố bịch củ a họ  đã quá lộ liễu, nên bị nhàm chán,  một phần do sự  thay đổi của tình hình chính trị tòan cầu sau sự sụp đổ của hệ thống Xô Viết, Mỹ đã mở rộng bang giao và phá bỏ “lằn ranh lạnh” với các cơ chế chính trị khác biệt, trong đó có cả CSVN. Khiến thế lực “chống cộng” hẫng chân. Nhưng tựu trung nền tảng vẫn không thay đổi. Dù đã có nhiều sự thay đổi trong những tuyên bố, đưòng lối công khai, nhưng vẫn không vượt qua được nền tảng “tấm giẻ rách ba que”.  Diển văn , họp báo, ra mắt, v.v. vẫn cứ   lấy “quốc ca quốc kỳ” của một chế độ ngụy tính đã chết làm nền tảng..  Như vậy rõ ràng ý thức, hay thẳng thắn mà nói, thì mục tiêu của những nhóm, đảng phái này vẫn chỉ là chống cộng bằng mị dân, chứ KHÔNG CÓ Ý THỨC KHAI PHÓNG  DÂN CHỦ. Não trạng của họ vẫn đang ngừng lại, xoay vần ở thời kỳ phân chia lằn ranh chính trị, với tác phong hoạt đầu phe phái.. VẪN KHÔNG CÓ THẬT TÂM SÒNG PHẲNG VÓI LỊCH SỬ, KHÔNG CAN ĐẢM THỪA NHẬN SỰ THẬT, vẫn tiếp tục ngụy biện dối trá và mị dân.  “Phe ta” được xác định bằng “cờ vàng” với những xưng tụng “VNCH”.. “Phe địch” gồm CSVN cộng thêm tất cả những chủ trương không có “cờ vàng giẻ rách”, “lên án Mỹ, Ngụy”.  Vì thế, những kẻ  bịp bợm như “Chính Phủ” Nguyễn Hữu Chánh, với những tung tin thất thiệt, chính tri hoạt đầu phong vương phong tưóc cho nhau.. lợi dụng dân trí thấp kém..bôi nhọ chụp mũ v.v vẫn được dung chứa. trong tinh thần “phe ta,”  VÌ  CHỦ TRƯƠNG CHỐNG CỘNG, CA TỤNG NHỚ ƠN VNCH, đồng minh MỸ,  và  phất phới  “GIẺ RÁCH BA QUE.”

Trong khi đó, bên trong Viêt Nam, những nỗ lực được thổi phồng là dân chủ dần dần lộ rõ cũng chỉ là những bưóc nối dài của thể chế chính trị lạc hậu CSVN, ly khai từ những bất mãn bực tức cá nhân chứ KHÔNG PHẢI TỪ Ý THỨC DÂN CHỦ. Từ đó chúng ta thấy những nhân tố này cũng chỉ xoay vần trong lề lối kiến nghị xin xỏ, trông chờ thay đổi từ tâm của đảng CSVN, vẪn xác định tính chính đáng vị thế của Đảng, vai  trò “anh hùng thánh nhân” của Hồ Chí Minh v.v   Bản chất của Kiến nghị là nài xin sự thương xót, từ tâm của kẻ cầm quyền; là xác nhận, là tự trao  quyền lực, tính chính đáng  cho kẻ cầm quyền. Đây chính là CHỦ TRƯƠNG  của kẻ cầm quyền.

NHỮNG  nhân tố này, KHÔNG HỀ CÓ NỖ LỰC VẬN ĐỘNG  ngưòi DÂN  trong ý thức vị thế CHỦ của mình. Họ tiếp tục biện minh, như đảng CSVN từng biện mình, rằng “hoàn cảnh xã hội lịch sử, văn hóa Việt Nam khác.. cho nên  chưa thể… DÂN CHỦ …như dân chủ ở nơi khác.”  Nói tóm lại, chúng ta chỉ thấy những huyênh hoang tuổi Đảng, công trạng cách mạng, xưng tụng phỉ già Hồ Chí Minh, để  tố cáo cá nhân, viết những kiến nghị nài xin, tạo những trao đổi vọng ra bênh ngoài, bày tỏ những trông đợi, kỳ vọng áp lực quốc tế, kỳ vọng trông chờ  thay đổi từ Đảng: thập thò hồi hộp trồi sụt theo từng tên Tổng Bí Thư, từng kỳ “đại hội đảng”, (cũng như các nhóm chống cộng, hí hửng trồi sụt theo quốc hội Mỹ, tuyên bố của nhà nưóc Mỹ)  NHƯNG KHÔNG HỀ THẤY CÓ NỖ LỰC TIẾP CẬN ĐỂ XÂY DỰNG Ý THỨC DÂN CHỦ TỪ QUẦN CHÚNG.  Tiêu biểu như nhóm Tràn Khuê và Đảng của nhóm Sĩ Bình và Ngãi cho rằng  “quan liêu quét sạch, người người thanh thản tự do.”  Có nghĩa là chỉnh đốn Đảng, sửa tính quan liêu của Đảng là … tự nhiên có Tự Do và quần chúng sẽ thanh thản!!! Đảng sẽ TỰ NGUYỆN cúc cung tận tụy làm công bộc dân! Và nhân dân tự nhiên nằm duỗi chân làm CHỦ..do Đảng ban cho sau khi gạch bỏ điều bốn hiến pháp, và Đảng CHO bầu cử QUỐC HỘI, có “quốc tế” giám sát. Chưa hết, Việt Kiều CÓ CÔNG, CÓ ĐÓNG GÓP CÙNG ĐẢNG CSVN sẽ ĐƯỢC ĐẢNG CHO PHÉP VỀ ỨNG CỬ THAM GIA QUỐC HỘI..không phải tham gia làm thủ tướng, bộ trưởng!!! ( Giời ạ.. cứ tưởng tượng Nguyên Khả tôi “tự  nhiên có công với Cách Mạng” đang ĐƯỢC ĐẢNG CHO làm Dân Biểu, tự nhiên lỡ quen miệng chửi cha “thằng bác Hồ”   trong Quấc Hụi, Đảng buồn lòng, KHÔNG CHO LÀM ĐẠI BIỂU “QUẤC HỤI”  nữa, thì làm sao, giải quyết cách nào đây hả các giời Dâng Chủ Đầu Hàng???)

Như vậy, nhìn phiến diện thì chúng ta sẽ “hồ hởi” vì cho rằng đảng CSVN và cái cơ chế toàn trị hiện đang bị hai áp lực “đấu tranh” để ĐA NGUYÊN HÓA QUỐC HỘI. Nhưng nếu nhận định xâu sát hơn chúng ta sẽ thấy rõ cả hai “thế lực” này đang tạo thêm sự vững mạnh cho đảng CSVN.

-Thứ nhất, họ đang tái  xác định phương cách, chính sách của CSVN : Thượng tầng chủ đạo mọi thay đổi. Không cần quần chúng. Xác nhận quyền hạn chính đáng của chế độ qua các KIẾN NGHỊ, GÓP Ý v.v

-Thứ hai, họ cũng đồng bộ với đảng CSVN trong nỗ lực bưng bít sự thật, mị dân.

-Thứ ba, hệ quả của hai sự kiện trên, là họ vô hình chung KHÔNG XÂY DỰNG, MÀ CÒN LÀM HƯ HOẠI DÂN TRÍ, sức mạnh duy nhất ĐỐI KHÁNG với NHÀ NƯỚC để đưa đến DÂN CHỦ. Họ cùng đảng CSVN ngăn chặn, loại bỏ QUẦN CHÚNG ra khỏi tiến trình chính trị của Việt Nam.

Như vậy rõ ràng chúng ta thấy đảng CSVN đang nắm tòan bộ điều kiện và quyền lực, mà DÂN TRÍ, Ý THỨC DÂN CHỦ, DÂN QUYỀN không được khai triển để  QUẦN CHÚNG THAM GIA VÀO TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ… thì hệ quả đương nhiên là KHÔNG THỂ CÓ DÂN CHỦ.. Đơn giản, DÂN CHỦ không thể có khi DÂN không tham gia, không có ý thức làm CHỦ.. Như vậy  nền toàn trị  đảng CSVN không thể lung lay, mà sẽ chỉ còn là sự đi đêm, ĐỔI TÊN, ĐỔI DẠNG, tưong nhượng chia quyền lợi chính trị, kinh tế , được mượn danh dân chủ, giữa các đối lực chính trị mà thôi. Do đó sẽ có những biến dạng về hình thức, nhưng bản chất vẫn là PHI DÂN CHỦ.. ĐẢNG VẪN TÒAN QUYỀN..   Đơn giản vì DÂN, đại đa số quần chúng Việt Nam, vẫn  đang bị đặt ra ngoài vòng xoay chuyển chính trị của xã hội, đất nước. Và thiểu số là các thế lực chính trị , dẫn đầu là  đảng CSVN, vẫn  CHỦ ĐỘNG tiến trình chính trị Việt Nam.

TÌNH HÌNH HIỆN NAY ở Việt Nam chỉ  là  sự tương tác giữa  đảng CSVN đang chủ động ở thế THƯỢNG PHONG, xoay vần với các nhóm chính trị thời cơ mà thôi. KHÔNG HỀ, và CHƯA HỀ mang tính VẬN CHUYỂN TIẾN ĐẾN DÂN CHỦ, vì không có, chưa có quần chúng, nhân dân.

Ngay ở xã hội dân chủ đầu tiên của nhân loại là nưóc Mỹ, khi quần chúng của họ đã hình thành được nền dân chủ, hành xử dân chủ bằng dân trí, mà những ngưòi sáng suốt, yêu dân chủ thật sự như ông Jefferson cũng vẫn lo ngại cảnh cáo:

“Nếu quần chúng nhân dân không còn lưu tâm đến công việc chính trị xã hội, thì các Ông và Tôi, và Quốc Hội, Lập Pháp, Chánh Án, Thống Đốc, tất cả sẽ trở thành những con Chó Sói. Điều này dường như là luật tự nhiên  thuộc bản chất tổng quát của chúng ta, cho dù có vài ngoại lệ cá nhân.” Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson nói với dân biểu  Edward Carrington.

Rõ ràng sự lưu tâm, ý thức, THAM GIA  của quần chúng nhân dân là một nền tảng duy nhất của dân chủ.. và là sức mạnh duy nhất để ngăn chặn sự lạm quyền lực, độc tài gian trá. Và rõ ràng hơn nữa, là KHÔNG BAO GIỜ CÓ MÔT NHÀ NƯÓC TỬ TẾ khi DÂN TRÍ KHÔNG CÓ, Ý THỨC QUẦN CHÚNG KHÔNG CÓ để buộc NHÀ NƯÓC PHẢI TỬ TẾ.

Nói cách khác, một nhà nước chỉ bị  DÂN TRÍ buộc phải tử tế  mà thôi..Và chỉ có DÂN TRÍ, SỰ Ý THỨC THAM GIA CỦA QUẦN CHÚNG MỚI XÂY DỰNG, LƯU GIỮ BẢO VỆ, VÀ PHÁT TRIỂN DÂN CHỦ bằng cách ĐỐI KHÁNG VỚI NHÀ NƯÓC LIÊN TỤC, MIÊN TỤC VÀ MIÊN VIỄN.

Con đường dân chủ hóa Việt Nam sẽ  còn rất dài, rất xa khi chưa có nỗ lục vận động khai triển và phát huy dân trí. Con đưòng dân chủ sẽ không những dài, xa vời vợi mà còn tăm tối đầy chông gai  khi dân trí vẫn bị những hư cấu hình bóng của  những tên gian manh phản quốc phi dân chủ như Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm v.v  nhập nhằng bao phủ; khi những nỗ lực đấu tranh vẫn bị trì kéo bởi “tấm giẻ rách ba que” với quá khứ hư cấu bịp bợm VNCH.  Dân Trí không thể có khi sự thật chính trị không được sòng phẳng trao đổi và phơi bày. Và Dân Chủ không thể có khi không có, chưa có, và KHÔNG XÂY DỰNG DÂN TRÍ.  DÂN TRÍ  là ý thức, là hiểu biết về quyền hạn công dân; là khả năng xác định, khả năng khẳng định quyền  của ngưòi dân, tính giới hạn của nhà nước, sự can đảm thể hiện dân quyền.  Khi không có dân trí thì bất cứ chế độ nào, cơ chế nào, cũng đều trở thành phi dân chủ độc tài; và  đảng phái nào cũng sẽ  tự nhiên trở  thành những con chó sói  cấu xé  bóc lột nhân dân và làm hại đất nưóc như  các chế độ Ngụy đã từng làm; và đảng CSVN đã và đang làm.

Đồng bào, giới trẻ dấn thân cho nền dân chủ thật sự,  xin hãy tố cáo, vạch mặt, và  tránh xa những tổ chức dựa vào “giẻ rách ba que” của chế độ Ngụy đã chết. Hãy cảnh giác, vạch mặt và  tránh xa những  nhóm ngưòi hoạt đầu ve vãn thừa nhận chế độ, vai trò  tòan trị của Đảng CSVN, hư cấu Hồ Chí Minh. Chúng ta cùng quần chúng thúc đẩy ý thức dân chủ và cùng đứng lên ĐẤU TRANH ĐÒI LẠI QUYỀN DÂN CHỦ CỦA CHÚNG TA thẳng thắn và không tưong nhượng.
Đây là giải pháp DUY NHẤT.

Tự Do không thể tồn tại khi không có Dân Trí
(Liberty can not be preserved without general knowledge among people.) (August 1765) John Adams

Ngày 24 tháng Giêng, Bính Tuất (21-2-2006)
Dân chủ Duy Việt
Nguyên Khả Phạm Thanh Chương

(Nguồn  http://duyviet.org/ )